Quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người đã được luật pháp quốc tế và Việt Nam công nhận, bảo vệ cụ thể:
Theo
Điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948
nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do
ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp
cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng
bất cứ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới”.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền
này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không
phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc
dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào
tùy theo sự lựa chọn của họ”. Mặt khác tại Điều 19 của Công ước ICCPR năm
1966 cụ thể: “Việc thực hiện quyền tự do
ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần
được quy định bởi pháp luật, nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người
khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe hoặc đạo
đức của xã hội”.
Trong
thời đại công nghệ thông tin, việc lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên
không gian mạng đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an ninh, trật tự khi quyền này bị lợi dụng. Nhận thức rõ
những nguy cơ trên, nhiều nước trên thế giới đã triển khai biện pháp quy định
cụ thể những thông tin được phép và không được phép đăng tải trên mạng xã hội. Điển
hình, tại Mỹ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có
tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm và gây hấn mà không bị xem là
vi Hiến. Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài
nghiêm khắc với hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm của con người,
chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống
kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1981); chống lại việc
xâm phạm đời tư (Bộ Luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an
ninh quốc gia (Luật Hình sự)…
Đối với Việt
Nam, tự do ngôn luận đã được công nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên năm
1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư
trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Cho thấy, pháp luật của nước ta
về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với luật pháp quốc
tế về quyền con người.
Ngoài những quy
định về quyền, Việt Nam cũng ban hành quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm như:
Tại Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Báo chí năm 2016 và Luật An ninh
mạng năm 2018 đều quy định như: Đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên
tạc, phỉ báng chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc
lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc;
thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự,
nhân phẩm của cá nhân… mọi hành vi vi phạm đều phải xử lý nghiêm.
Như vậy, theo
quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam thì quyền tự do ngôn luận được bảo
vệ và phải thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật từng quốc gia.
Tuy
vậy, thời gian qua, các thế
lực thù địch và đối tượng chống đối trong, ngoài nước luôn lợi dụng vấn đề “tự do ngôn
luận” để xuyên tạc vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đăng tải lên không
gian mạng nhiều “sản phẩm” dưới các hình thức như: Bài viết, video, phỏng vấn
trực tuyến, tọa đàm… với nội dung xuyên tạc, cho rằng: “Việt Nam đang vi phạm vấn đề về nhân quyền”; “Việt Nam không có tự do
ngôn luận”, “đàn áp người thể hiện chính kiến”… Đặc biệt, cổ súy hận thù, kích động gây mất
đoàn kết, chia rẽ nội bộ, phá hoại công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang đi đúng hướng và rất được
lòng dân. Chúng luôn rêu rao rằng tiếng nói của
chúng là “xuất phát từ tiếng nói của Nhân
dân”, “đại diện cho người dân”,
nhưng bản chất đó là những luận điệu mang tính chủ quan, duy ý chí, so bì kiểu “dân chủ phương Tây với Việt Nam” để quy
chụp, “lập lờ đánh lận con đen” của
những nhà “dân chủ” rởm chỉ nhằm phá
hoại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Qua đây có thể khẳng định rằng Việt Nam luôn tôn trọng và tạo điều kiện cho mọi
người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, cũng kiên quyết xử lý
nghiêm những trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm lợi ích của
quốc gia, dân tộc. Điển hình gần đây, cơ quan chức năng đã xử lý đối tượng Phạm
Đoan Trang 09 năm tù và Lê Văn Dũng (Dũng Vova) 05 năm tù và bị quản chế 05 năm
sau khi mãn hạn tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”…. Từ đó, tạo ra sự đồng thuận cao trong Nhân dân.
Mỗi người dân
cần phải hiểu đúng về quyền tự do ngôn luận, thực hiện quyền này trong khuôn
khổ của pháp luật cho phép; trong đó cần phải sàng lọc thông tin, cảnh giác
trước hoạt động tuyên truyền lôi kéo của kẻ xấu trong việc lợi dụng quyền tự do
ngôn luận để chống phá Đảng, Nhà nước, dẫn đến vi phạm pháp luật; tích cực tham
gia đấu tranh với hoạt động trên, góp phần tạo một môi trường “xanh”, “sạch” và
“lành mạnh” trên không gian mạng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét