Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Việt Nam. Đặc biệt, chúng cho rằng “Chính quyền Việt Nam không thực thi các quyền của dân tộc bản địa” theo cam kết đã ký liên quan “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về Quyền của các dân tộc bản địa”.
Thủ đoạn chủ yếu của chúng là cho rằng dân tộc thiểu số tại Việt Nam như dân tộc Khmer, Chăm… là “dân tộc bản địa” và yêu cầu Nhà nước phải công nhận, đảm bảo cho các dân tộc thiểu số thực hiện quyền trong “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về Quyền của các dân tộc bản địa” như một dân tộc bản địa; trong đó, yêu cầu thực hiện quyền tự quyết quy định tại Điều 3, Điều 4 của Tuyên ngôn là “được tự do quyết định vị thế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của họ; quyền tự trị hay tự quản trong những vấn đề liên quan đến các công việc nội bộ và địa phương của họ”… Qua đó, chúng đã đánh đồng quyền tự quyết của dân tộc bản địa và quyền của các dân tộc thiểu số.
Với những luận điệu đó, tại Trà Vinh thời gian qua, có một số trường hợp thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên mạng xã hội Facebook quyển sách “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về Quyền của các dân tộc bản địa”, qua đó kêu gọi thanh niên Khmer nghiên cứu sách này để đòi quyền tự quyết của dân tộc mình.
Để đồng bào Khmer, quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn về quyền của các dân tộc bản địa trong “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về Quyền của các dân tộc bản địa”, chúng ta cần làm rõ, phân biệt được dân tộc bản địa và dân tộc thiểu số, từ đó có cách nhìn nhận đúng đắn, không để kẻ xấu tuyên truyền, kích động thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể:
1. Về Dân tộc thiểu số
Thuật ngữ “dân tộc thiểu số” thường dùng để chỉ những người thuộc các dân tộc (tộc người) có dân số ít hơn so với các dân tộc đa số. Theo các nhà dân tộc học, để xác định một dân tộc (tộc người), cần phải dựa vào 03 tiêu chí cơ bản là: Có ngôn ngữ riêng, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Dựa vào các tiêu chí nói trên, trong những năm 70 (thế kỷ XX) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) và Ủy ban Dân tộc đã thống nhất xác định các dân tộc, xây dựng bảng danh mục thành phần các dân tộc ở nước ta trình Chính phủ. Năm 1979, Chính phủ đã ủy quyền cho Tổng cục Thống kê chính thức công bố Bản Danh mục thành phần các dân tộc nước ta gồm 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại là dân tộc thiểu số.
2. Về Dân tộc bản địa
Liên Hợp quốc đã nêu “Dân tộc bản địa hay còn gọi là thổ dân là nhóm người đã từng có mặt trên một lĩnh vực đất đai, trước ngày di dân của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ”.
Một số đối tượng cho rằng trước khi chính quyền Việt Nam khai phá, mở rộng lãnh thổ thì các dân tộc thiểu số tại Việt Nam (như Khmer, Chăm…) đã từng có mặt, sinh sống trên phần lãnh thổ đó, vì vậy chúng cho rằng các dân tộc thiểu số tại Việt Nam như Khmer, Chăm cũng là dân tộc bản địa, nên chúng đòi thực hiện các quyền trong tuyên ngôn cho dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên theo lịch sử nước ta, thuật ngữ “dân tộc bản địa” gắn liền với các thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, thuật ngữ “dân tộc bản địa” hoặc “người bản xứ” được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng dân tộc Việt Nam (kể cả người Kinh và các dân tộc thiểu số).
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, người dân Việt Nam làm chủ đất nước, không còn là dân bản địa hay bản xứ nữa. Vì vậy, đánh đồng dân tộc Khmer, Chăm… cũng là dân tộc bản địa của các đối tượng trên là hoàn toàn vô lý trong đất nước Việt Nam; việc thực hiện các quyền trong tuyên ngôn là do quốc gia thực hiện chứ không áp dụng đối với tộc người nào trên lãnh thổ Việt Nam và việc một số trường hợp kêu gọi thanh niên Khmer đòi quyền tự quyết là không đúng.
Ngoài ra, để đảm bảo các quyền của các dân tộc thiểu số, Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, được thể chế hóa tại các điều luật trong Hiến pháp, các văn bản Luật, dưới luật. Điển hình như:
- Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến nay, Việt Nam luôn nhất quán mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Hiến pháp năm 2013 ghi nhận các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số như quyền bình đẳng tại Điều 5, 16; quyền bầu cử, ứng cử tại Điều 27; quyền về văn hóa tại các Điều 24, 39, 40, 41, 42… và nhiều quyền khác được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, mà tất cả 54 tộc người đều được hưởng như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào.
- Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Đề án và ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Đề án là giải pháp quan trọng, đột phá, nhằm tập trung nguồn lực phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, công tác dân tộc ở nước ta đạt được những thành tựu quan trọng: Đồng bào các dân tộc thiểu số được hưởng các quyền bình đẳng, trong đó, đại biểu là dân tộc thiểu số tại Quốc hội khóa XIV chiếm tỷ lệ trên 17,30% tổng số đại biểu Quốc hội (trong khi đó dân tộc thiểu số trong tổng dân số cả nước chỉ chiếm khoảng 14%); nhiều đại biểu ưu tú là con em các dân tộc thiểu số đã tham gia vào những vị trí lãnh đạo các cấp trong hệ thống chính trị.
Tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có bước phát triển toàn diện, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm; đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt; kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng và củng cố; nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt được quan tâm giải quyết... Cụ thể: Theo kết quả điều tra, thu thập thông tin thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, đạt được nhiều thành tựu nổi bật như gần 90% các thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số đã có đường giao thông đến trung tâm xã được cứng hóa; 98,6% số thôn, ấp thuộc các xã vùng dân tộc thiểu số đã được tiếp cận điện; 99,5% xã vùng dân tộc thiểu số đã có Trạm Y tế. Đáng chú ý, có khoảng 99,8% các hộ dân tộc thiểu số có nhà ở, trong đó có 79,2% nhà kiên cố hoặc bán kiên cố…
Như vậy, kể từ khi thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo về mọi mặt cho Nhân dân, đặc biệt quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo được sự thống nhất cao trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, có một số trường hợp trên địa bàn nhận thức còn hạn chế, có tư tưởng lệch lạc, vì lợi ích cá nhân và nghe theo sự xúi giục của các kẻ xấu có những phát ngôn, tuyên truyền trên mạng xã hội những thông tin sai trái, gây dư luận không tốt trong vùng đồng bào Khmer, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Vì vậy mỗi người Khmer hãy có cách nhìn đúng đắn, phân biệt đúng, sai, không nghe theo các đối tượng xấu tuyên truyền, chống phá, giữ gìn khối đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.
Trà Vinh quê em.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét