Đó là câu hỏi mà đa phần dư luận quan tâm đến tình
hình Biển Đông những năm gần đây, đặc biệc là việc
Trung Quốc đưa tàu khảo sát Địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ tống hoạt động
tại bãi Tư Chính, xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán và vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam.
Đường đi của tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam (Ảnh: Báo Thanh niên).
Liên quan vấn đề này các nhà nghiên cứu
pháp luật, quân sự trong nước và quốc tế có nhiều phân tích về cách ứng xử của Việt
Nam, đồng thời so sánh với sự kiện Vịnh Bắc bộ trên khía cạnh pháp luật quốc
tế, cụ thể:
- Ngày 2/8/1964, khi tàu khu trục USS Maddox
(Mỹ) xâm phạm lãnh hải của Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã đánh đuổi bằng 3 tàu
phóng lôi khiến tàu Maddox trúng đạn. Việc này không chỉ là chiến công
đánh bị thương con tàu Maddox hiện đại của Mỹ khi xâm phạm vào phần lãnh hải
của Việt Nam (sát bờ biển Thanh Hóa - cách bờ biển khoảng 06 hải lý), điều quan
trọng là vào những năm 60 của thế kỷ trước, xét về khía cạnh pháp lý, Việt Nam
đã hành xử rất phù hợp với luật pháp quốc tế về biển. Dù chưa có Công ước Luật
Biển (UNCLOS) năm 1982 nhưng cũng đã có “Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp”
năm 1958, “Công ước về Hải phận quốc tế” năm 1962. Như vậy, vùng nội thủy hay
vùng lãnh hải lúc đó được coi là vùng lãnh thổ trên biển và mọi hành vi xâm
nhập vào vùng nội thủy, lãnh hải thì các nước ven biển có chủ quyền có quyền sử
dụng vũ lực để đánh trả, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Cho nên, việc Mỹ đưa tàu khu
trục hiện đại vào khu vực vượt quá giới hạn đó thì Việt Nam có quyền sử dụng vũ
lực. Việc này về mặt luật pháp hoàn toàn phù hợp và nhận được sự ủng hộ
nhiệt tình của cộng đồng quốc tế.
- Khi UNCLOS 1982 ra đời, các quốc gia ven
biển có những quyền được quy định rất rõ về vùng biển thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán, … Trong 5 vùng biển ( nội thủy, lãnh hãi, tiếp giáp
lãnh hãi, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa) thì có 2 vùng biển là nội thủy và
lãnh hải được coi như là lãnh thổ quốc gia trên biển; đường ranh giới 12 hải lý
tính từ đường cơ sở là biên giới lãnh thổ.
- Việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Địa
chất Hải dương 8 hoạt động tại bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam, không phải là vùng lãnh hải hay nội thủy. Cho nên,
Trung Quốc đã vi phạm về quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
- Theo UNCLOS, Việt Nam thực hiện quyền
chủ quyền và quyền tài phán để khai thác, bảo vệ vùng tài nguyên tại khu vực đó.
Cho nên, khi xảy ra sự việc trên, các lực lượng chấp pháp trên biển của Việt
Nam như Cảnh sát biển và Kiểm ngư đã được điều ra để đảm bảo thực thi pháp luật,
nói rõ phạm vi này thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam; yêu cầu
Trung Quốc ra khỏi khu vực này, không
dùng đến vũ lực, không dùng đến các biện pháp mạnh, không có lực lượng Hải quân
bởi vì quy chế pháp lý hiện nay là như vậy. Ở đây Việt Nam đang thi hành
luật pháp quốc tế đề ra.
Những động thái, hành động của Việt Nam
làm là tôn trọng và thực hiện theo đúng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982.
Đối chiếu với sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964, cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và
hành xử theo đúng pháp luật quốc tế. Đồng thời pháp luật quốc tế là chiếc “nỏ
thần” để Việt Nam vận dụng chống lại thói hành xử cường quyền hiện nay của các
nước lớn.
Việc này được quốc tế ủng hộ rất lớn,
trong đó có Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản… Nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá rất cao
việc hành xử khôn khéo, linh hoạt của Việt Nam, vừa thượng tôn pháp luật vừa
không để Trung Quốc tạo cớ gây chiến. Nhưng nếu vượt qua biên giới có hành vi
xâm lược, vi phạm vào lãnh thổ trên biển thì ngoài các biện pháp đấu tranh về
mặt tư tưởng, ngoại giao, Việt Nam sẵn sàng dùng vũ lực đáp trả đích đáng để bảo
vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đó là một điều chắc chắn!
Qua đây, một lần nữa cho thấy sự khéo léo trong vận dụng pháp luật quốc tế của
Việt Nam để giải quyết các vấn đề trên biển, vừa bảo vệ chủ quyền, vừa đảm bảo
môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Trà Vinh quê em.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét