TRÀ VINH QUÊ EM https://travinhqueem.blogspot.com

Advertisement

Pages

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2018

Thanh niên yêu nước gửi thư cho tổ chức khủng bố Việt Tân: Đừng dạy người Việt Nam về tinh thần yêu nước

Bức tâm thư của một Thanh niên Việt nam hiện đang lao động và học tập ở Đất nước Mặt Trời Mọc gửi tới tổ chức khủng bố Việt Tân.
Bài viết rất chân thành, chứa đựng tình cảm sâu sắc, biết ơn của hầu hết Thanh niên Việt Nam dành cho thế hệ Cha Ông đi trước đã hy sinh xương máu để thống nhất non sông. Bài viết cũng bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối vào Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu bức thư của Thanh niên yêu nước này đến quý độc giả:
…………………………………………………………………..
Gửi tổ chức khủng bố Việt Tân!
Tôi xin có vài lời gửi đến các người!
THỨ NHẤT, các người hãy thôi nói về tự do ngôn luận.
Thật là kì quặc khi các người – những kẻ cầm súng bắn gục những nhà báo Việt Nam chân chính ở Mỹ, lại mở mồm rao giảng về tự do ngôn luận. Phải chăng da mặt các người dày hơn da trâu?
Tự do ngôn luận là khái niệm có tính tương đối. Xã hội loài người luôn có nhiều người xấu hơn là người tốt, nếu để tự do ngôn luận tuyệt đối, ai muốn nói gì thì nói, chắc chắn những dư luận xấu sẽ tràn ngập khắp mọi nơi và làm băng hoại đạo đức loài người. Đó là lý do nước nào cũng có những cơ quan kiểm duyệt thông tin.

THỨ HAI, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về tình yêu nước.
Thật là xảo trá khi các người – những kẻ đã từng khom lưng cúi đầu làm tôi mọi, làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ để bức hại đồng bào, phản bội lại khát vọng độc lập, tự do, thống nhất của nhân dân, giờ đây lại rao giảng về tình yêu nước?
Thế thì khác gì Lê Chiêu Thống dạy Quang Trung về lòng trung thành, khác gì Trần Ích Tắc dạy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn về tình thần dân tộc?
Các người không có tư cách dạy nhân dân Việt Nam về tình yêu nước. Các người càng không có tư cách dạy Việt Cộng về tình yêu nước.
Hãy tìm Bảy Nhu – người cai ngục ở nhà tù Phú Quốc để biết Việt Cộng yêu nước như thế nào. Có rất nhiều người yêu nước không phải là Việt Cộng: có thể kể đến như Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, sinh viên Nguyễn Thái Bình… Nhưng Việt Cộng là những người gan góc nhất, kiên cường nhất, bất khuất nhất trước sự dã man, tàn bạo của kẻ thù. Lịch sử nhà tù Phú Quốc và Côn Đảo đã chứng minh.
Chỉ có những kẻ mù lương tri, điếc lẽ phải và ung thư dối trá, mới phủ nhận điều đó.

THỨ BA, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về cách chiến đấu bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Thật là nực cười khi những kẻ tụt quần đu càng, bán Hoàng Sa cho Trung quốc lại lên tiếng chỉ trích những người đã từng đánh bại thực dân Pháp, quét sạch Phát xít Nhật và tống cổ Đế quốc Mỹ về nước, tiêu diệt bè lũ Polpot – Ieng Sary ở biên giới Tây nam (tay sai của Mỹ – Trung) cũng như hoàn thành nhiệm vụ Quốc tế cao cả là giải phóng Đất nước Cam-pu-chia, tiếp đến là thần tốc đập tan Tập đoàn bành trướng Bắc Kinh ở biên giới phía Bắc, rằng phải làm thế nào để bảo vệ chủ quyền lãnh hải.

Xin lỗi, kinh nghiệm đu càng hay nghệ thuật đu càng sao cho đu không rớt, càng không gãy, khi đu tè không ướt quần, các người cứ dạy lại cho con cháu các người học tập và làm theo. Còn chúng tôi thì không cần đâu nhé.
THỨ TƯ, các người hãy thôi nói về nhân quyền.
Những người đã từng đập vỡ cổ chai thuỷ tinh, đâm xoáy cổ chai thuỷ tinh vào cửa mình của thiếu nữ Nguyễn Thị Mai, sẽ là người mang đến nhân quyền cho phụ nữ Việt Nam? (Mời đọc Bài ca hi vọng, NXB Tổng hợp Tp.HCM).
Những người đã từng cưa sống 6 lần đôi chân của thanh niên Nguyễn Văn Thương, sẽ là người mang đến nhân quyền cho Thanh niên Việt Nam? (Mời đọc Người bị CIA cưa chân 6 lần, NXB Tổng hợp Tp.HCM). Nếu không tin hãy tìm hiểu từ báo chí nước ngoài nữa nhé!
Cũng không nên dựa hơi vào Bố Mỹ của các thím để đòi hỏi làm người như các thím đang ngày đêm khản cổ trên các trang mạng xã hội, các thím hãy nhìn vào Đất nước Sirya để hiểu về NHÂN QUYỀN CỦA NGƯỜI MỸ.

Việt Tân à!
Cái được gọi là CÁC NHÀ HOẠT ĐỘNG DÂN CHỦ (CUỘI) trong nước à!

Tôi khuyên các bạn nên dừng lại những trò lố bịch, kệch cỡm và vô sỉ.
Chúng tôi, những người Việt Nam yêu nước, những người Việt Cộng yêu Tổ quốc thương giống nòi tự biết phải làm gì để thay đổi những cái chưa tốt, phát huy những cái tốt ở Quê hương chúng tôi. Chúng tôi không có cái khoái cảm đặc biệt khi làm tay sai cho ngoại bang như các bạn, nên các bạn đừng phiền công cuộc xây dựng, đổi mới của Đất nước chúng tôi nữa nhé.

Nếu các bạn dừng lại, sám hối với Tổ Quốc, với Nhân dân, chúng tôi vẫn xem các bạn là đồng bào. Nếu các bạn tiếp tục ngoan cố, thì chúng tôi đành xem các bạn là giặc vậy.

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2018

MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ - CÂU CHUYỆN BỊA ĐẶT


Chắc bất cứ ai quan tâm đến công tác chống phản động thì ít nhất cũng đã từng nghe nói đến lời tuyên truyền bịa đặt “Việt Nam sẽ là 1 tỉnh tự trị của Trung Quốc vào năm 2020”. Đó là 1 trong những nội dung mà chúng cho rằng có trong một giao ước bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc mang tên “Mật ước Thành Đô”.

Ngày 30/11/2010, blogger Người đưa tin Kami đã đăng tải bài viết “Wikileaks – Kế hoạch cho Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh”, trong nội dung bài viết có đề cập đến một tài liệu “TUYỆT MẬT” có liên quan đến Việt Nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí thư Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt Nam và ông Giang Trạch Dân Tổng Bí thư và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 03-04/9/1990 tại Thành Đô. Bọn phản động gọi nó là “Mật ước Thành Đô”. Theo người đưa tin Kami thì trong Mật ước này có 1 nội dung quan trọng là “…Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”. Có nghĩa tới năm 2020, Việt Nam sẽ sát nhập vào Trung Quốc theo như thông tin mà Blogger này đưa ra.
Cả đám phản động nháo nhào như vớ được miếng mồi ngon, vì những chiêu trò tuyên truyền của bọn chúng vào thời điểm đó đã quá nhàm vì thường xuyên lặp lại những luận điệu “cộng sản đàn áp tôn giáo” “cộng sản đánh dân”… Khi mà những chiêu trò cũ không còn hiệu quả để lôi kéo người dân, thì với cái thông tin “Mật ước Thành Đô” mà bọn nó có được, bọn chúng dễ dàng đánh vào nhận thức người dân Việt Nam với tâm lý “bài Tàu”, từ đó kích động người dân lật đổ ĐCSVN. Bắt đầu từ đây, bịa đặt sinh ra thêm nhiều bịa đặt.
 Lúc này, chúng như đắc chí như thêm một “bằng chứng hùng hồn” và được chúng nhai lại đến tận bây giờ. Bọn chúng bịa ra nội dung của Hồi ký Trần Quang Cơ để cố chứng minh cái luận điệu “CSVN bán nước”. Nhưng thật sự cái cái Hồi ký mà chúng truyền nhau trên mạng là một bản đã bị chỉnh sửa, bởi vì Hồi ký Trần Quang Cơ chưa bao giờ được công bố. Khi bị lật tẩy, chúng tiếp tục bịa ra cái “Nhật ký Lý Bằng” nhằm tiếp tục trò xuyên tạc lươn lẹo của chúng. (Lý Bằng là nguyên thủ tướng của Trung Quốc ). Tiếp đó là cái chiêu trò quen thuộc “nhét chữ vào miệng” Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch “Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu”.
“Mật ước Thành Đô” được bọn chúng thường xuyên tuyên truyền nhiều và mạnh mẽ đến nỗi nhiều người trẻ tin theo rằng chúng có thật, thậm chí đến thời điểm hiện giờ vẫn rất nhiều người tin vào lời tuyên truyền của bọn chúng. Ngày 02/09/2014, bọn chúng lợi dụng vấn đề này để phát động lên cái phong trào “Tôi muốn biết” với mục đích yêu cầu ĐCSVN công khai bí mật quốc gia, trong đó bí mật về mật ước Thành Đô. Một phong trào nhảm và vô lý hết sức, nếu thông tin nào đó thuộc bí mật quốc gia sao có thể công khai được, lại còn đòi công khai cái mà chúng ta còn chẳng biết nó tồn tại hay không. Nhưng thật sự vẫn có người tin.
Như đã viết ở trên, bịa đặt bắt đầu sinh ra bịa đặt, và trò bịa đặt bắt đầu cũng hạ màn. Vào tháng 9 năm 2016, Blogger Người đưa tin Kami, kẻ mà tung tin về nội dung Mật ước Thành Đô, đã thú nhận bài viết của hắn là bịa đặt. Hắn thú nhận sử dụng phương pháp “40/60”, do Joseph Goebbels, Bộ trưởng tuyên truyền khét tiếng của Đức Quốc xã nghĩ ra. Muốn thuyết phục và định hướng dư luận chỉ cần 60% thật còn 40% là bịa. Như vậy, vốn dĩ “Mật ước Thành Đô” chỉ là sản phẩm tưởng tượng ra, vậy suốt 6 năm (từ năm 2010 khi blogger Người đưa tin Kami đăng bài đến khi thú nhận) bọn phản động đã cố chứng minh 1 sản phẩm tưởng tượng thành 1 thứ có thật! Thật là trò cười!
Cho đến hiện tại, bọn phản động vẫn chưa chấp nhận sự thật này, vẫn lợi dụng vẫn đề này để xuyên tạc, kích động. Nhiều bạn trẻ vẫn tin vào những lời tuyên truyền đó mà không chịu tiếp nhận thông tin đúng đắn. Thậm chí chính những người phe ta vẫn tin Mật ước Thành Đô có thật.
 ST.

YÊU DÂN TỘC KIỂU “KKF”

12h trưa ngày 17/10/2018, Ủy ban châu Âu đã kết thúc phiên họp và đã thống nhất thông qua việc trình lên Hội đồng Châu Âu chấp thuận để ký chính thức Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU gọi tắt là  EVFTA (dự kiến cuối năm 2018) và trình Nghị viện Châu Âu phê chuẩn (đầu 2019).

Điều trần tại Nghị viện châu Âu về Hiệp định FTA Việt Nam-EU

Ngay chiều ngày 17/10/2018, Ủy ban châu Âu đã họp báo chính thức công bố thông tin tích cực này và khẳng định cam kết sẽ thúc đẩy đưa Hiệp định này vào thực thi trong thời gian sớm nhất. 
Vậy mà trước các phiên họp những tổ chức và cá nhân mang danh nghĩa yêu nước, yêu dân tộc mình như Prak Serey Vuth – tự xưng là Chủ tịch điều hành Liên đoàn Khmer Kampuchea Krom đệ trình kiến nghị lên Nghị viện Châu Âu,  xuyên tạc về tình hình dân tộc, tôn giáo  trên đất nước Việt Nam, đòi hỏi các yêu sách nhằm trì hoãn và gây bất lợi cho Việt Nam trong quá trình đàm phán ký kết EVFTA.

Có thể khẳng định rằng việc Ủy ban Châu Âu thống nhất thông qua việc trình lên Hội đồng Châu Âu chấp thuận để ký chính thức Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU là tin vui cho toàn thể người dân và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Có được kết quả ban đầu này là cả quá trình phối hợp tích cực các nỗ lực về chính trị, đối ngoại, đàm phán, hợp tác, đấu tranh nhằm đạt được tối đa lợi ích cho Quốc gia dân tộc khi tham gia một sân chơi quy mô rộng lớn như EU. Cũng từ đây không gian kinh tế Việt Nam được mở rộng, là điều kiện thuận lợi để cộng đồng doanh nghiệp và người dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế làm giàu cho chính bản thân mình và cho đất nước. Lợi ích từ việc ký kết hiệp định đem lại không riêng cho dân tộc nào mà đó là thành quả chung cho 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam hình chữ S.

Kinh tế là động lực thúc đẩy các vấn đề then chốt của xã hội phát triển, khi kinh tế phát triển nhà nước có điều kiện chăm lo, thực hiện tốt các vấn đề xã hội khác như: văn hóa, an sinh xã hội, chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Tại Trà Vinh chúng ta, các chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer luôn được cải thiện và chăm lo ngày một tốt hơn, hệ thống các trường Dân tộc nội trú được xây dựng ngày một khang trang, trường trung cấp Paly sắp đưa vào sử dụng đáp ứng phần nào nhu cầu học tiếng Khmer của dân tộc mình; văn hóa và các thiết chế văn hóa được bảo tồn và phát triển nhiều hơn trước…
Một số hình ảnh làng bích họa văn hóa Khmer,  Ao Bà Om - Trà Vinh

Những vấn đề trên đã chứng minh đường lối phát triển kinh tế và chính sách của Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc, tôn giáo… là phù hợp, hài hòa cho tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mọi hành động mang danh chủ nghĩa yêu nước, yêu dân tộc mình mà làm cản trở quá trình phát triển đất nước kiểu như Prak Sery Vuth – tự xưng là Chủ tịch Liên đoàn Khmer Kampuchea Krom người Khmer, đều đi ngược lại lợi ích chung của quốc gia, dân tộc trong đó có dân tộc Khmer.

Hành động của ông chẳng khác nào kẻ phá hoại.

Thạch Sâm Nang.


Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

Không thể đánh đồng quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số

Những năm qua, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, một trong những thủ đoạn thâm hiểm được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng là "quyền dân tộc tự quyết” hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Quyền tự quyết dân tộc dưới góc nhìn luật pháp quốc tế
Xét trên bình diện quốc tế, quyền dân tộc tự quyết là quyền của mỗi dân tộc trong việc thiết lập chế độ chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Trong Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ), dân tộc tự quyết được coi là nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Hiến chương khẳng định: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”; đó là quan hệ giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền và có quyền tự định đoạt vận mệnh của mình.
Ngày 14-12-1960, Đại hội đồng LHQ ban hành Nghị quyết số 1514 (XV) thông qua Tuyên bố về “Trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa”; tại Điều 2, nghị quyết chỉ rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết, trong đó có quyền thiết lập chế độ chính trị và thực hiện sự phát triển KT-XH và văn hóa của mình”. Điều này, tiếp tục được khẳng định tại Điều 1, Công ước Quốc tế về các quyền KT-XH và văn hóa năm 1966: “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển KT-XH và văn hóa”. Tuyên bố năm 1970 về Các nguyên tắc của luật quốc tế của LHQ cũng nhấn mạnh: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết” và “mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền này, phù hợp với Hiến chương LHQ”.
Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau: Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện; tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, KT-XH; tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài; quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự; tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. Như vậy, “quyền dân tộc tự quyết” được hiểu là việc một quốc gia-dân tộc hoàn toàn tự do trong tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. 
Hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số
Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi nhận trong hai Công ước quốc tế là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của LHQ (UDHR) năm 1948: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi: “Tại những nước có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ” (Điều 3). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng, ghi nhận các quyền pháp lý cơ bản của con người về dân sự, chính trị mà quyền dân tộc thiểu số được coi là quyền cơ bản trong nhóm các quyền dân sự, chính trị đó. Điều đó có nghĩa là người dân tộc thiểu số (DTTS) có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, KT-XH, văn hóa như những người thuộc dân tộc đa số trong xã hội, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền của DTTS tuy có mối quan hệ nhưng nội hàm của chúng hoàn toàn khác nhau. Đối với quyền của DTTS, chủ thể hưởng thụ quyền là các DTTS trong một quốc gia. Quốc gia đó có trách nhiệm bảo đảm cho các DTTS trong quốc gia mình được hưởng thụ quyền dựa trên điều kiện đặc thù của mình. Còn chủ thể quyền dân tộc tự quyết là quốc gia-dân tộc chứ không phải là một DTTS trong quốc gia-dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không cho phép một DTTS ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Trong mỗi quốc gia có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, tất cả các dân tộc này cùng hợp thành một dân tộc chung nhất, đồng nghĩa với nhân dân và mang tên gọi của đất nước mình.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, đoàn kết, hòa thuận trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục tiêu bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; đồng thời nhấn mạnh: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Nội dung này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật khác, như: Luật Quốc tịch năm 2008; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) năm 2015... Ở Việt Nam, chỉ có khái niệm quyền con người, quyền công dân; đó là quyền của tất cả nhân dân Việt Nam, không phân biệt họ là DTTS hay đa số. Quyền con người thuộc mọi dân tộc thống nhất giữa quyền cá nhân và quyền tập thể cộng đồng dân tộc được đặt chung trong quyền của quốc gia-dân tộc.
Làm thất bại những âm mưu lợi dụng, chống phá
Trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự quyết là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để kích động đồng bào các DTTS ở Việt Nam đứng lên đòi “quyền dân tộc tự quyết”. Chúng ra sức truyền bá, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam; kích động các dân tộc chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước Việt Nam từ bên trong. Lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; lợi dụng cuộc sống khó khăn của một bộ phận đồng bào DTTS để vu cáo Nhà nước Việt Nam "phân biệt đối xử, đàn áp người DTTS", ép người DTTS phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” để hoà nhập với “cuộc sống văn minh” của người Việt… để kích động, lôi kéo người DTTS biểu tình, bạo loạn đòi “quyền dân tộc tự quyết, tự quản”.
Chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc vượt biên trái phép, gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp. Chúng vận động các tổ chức quốc tế vào các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nắm tình hình rồi xuyên tạc thực tế, vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp người DTTS, vi phạm dân chủ, nhân quyền, qua đó, hòng gây sức ép yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải trao quyền “dân tộc tự quyết” cho người DTTS. Chúng kích động đồng bào các DTTS trong nước đòi quyền dân tộc tự quyết, thành lập “Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chămpa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... qua đó nhằm hình thành các tổ chức đối lập với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, như: "Hội người Mông thế giới", "Hội người Thượng Đề-ga", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề-ga độc lập"… tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực hơn.
Để phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng quyền dân tộc tự quyết để chống phá Việt Nam, cần tăng cường tuyên truyền để xã hội hiểu đúng về quyền dân tộc tự quyết theo luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tôn giáo; chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc. Làm tốt công tác nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá cách mạng. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, bức xúc trong đồng bào DTTS trên cơ sở pháp luật...
 ST.