Thời gian gần đây,
đặc biệt là trong quá trình Quốc hội thảo luận và thông qua luật An ninh mạng, một
số luồng thông tin tuyên truyền cho rằng, Luật An ninh mạng là không
cần thiết vì nó là công cụ “chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”,
“đàn áp bất đồng chính kiến”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh
nghiệp”, “thêm giấy phép con”, “lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”… để các bạn có cái
nhìn toàn diện, khách quan về vấn đề này Blog Trà Vinh quê em đã có trao đổi
với các nhà khoa học, luật sư xung quanh vấn đề này, xin lược ghi một số ý
chính để cung cấp thông tin đến các bạn.
Hỏi: Đối với Việt
Nam, trong giai đoạn hiện nay có cần thiết phải xây dựng luật An ninh mạng hay
không?
Trả lời: Lẽ ra Việt Nam phải cần xây dựng và hoàn thiện các
vấn đề về mặt pháp lý có liên quan đến An ninh, an toàn thông tin mạng, nhất là Luật An ninh mạng sớm hơn bởi các lý do sau:
- Sự phát triển bùng nổ của công
nghệ mang tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, Internet, điện toán đám mây, hệ thống dữ liệu lớn, hệ thống dữ liệu nhanh... đã làm không
gian mạng thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng, được dự báo sẽ mang lại những
lợi ích chưa từng có cho xã hội loài người nhưng cũng làm xuất hiện những nguy
cơ tiềm ẩn vô cùng lớn. Trong khi
đó Việt Nam là nước có tốc độ phát triển Internet cao trong khu vực Châu Á,
tỉ lệ người sử dụng Internet cũng được xếp vào những nước đứng đầu của khu vực.
- Nhận thức rõ về những mối đe dọa đối với an
ninh mạng, đến nay đã có hơn 80 quốc gia, tổ chức, liên minh quốc tế như Mỹ, Anh,
Đức, Hà Lan, Pháp, Canada, Hàn Quốc, NATO … cụ thể hóa thành các văn bản chính
sách, văn bản pháp luật như luật hoặc văn bản dưới luật ... nhằm tạo
ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc
gia từ không gian mạng; thành lập các lực lượng chuyên trách về an ninh mạng,
tình báo mạng, chiến tranh mạng, phòng chống khủng bố mạng và tội phạm mạng.
Chỉ trong vòng 06 năm trở lại đây, đã có 23 quốc gia trên thế giới ban hành
trên 40 văn bản luật về an ninh mạng.
- Ở nước ta, sau hơn 20 năm ứng dụng và
phát triển mạnh mẽ Internet trong các lĩnh vực của đời sống đã góp phần to lớn đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của Intrenet đem lại vẫn còn nhiều như: (1) Không gian
mạng và một số loại hình dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin đang bị các thế
lực thù địch, phản động sử dụng để thực hiện âm mưu tiến hành “cách mạng màu”,
“cách mạng đường phố”, “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ chính trị ở nước
ta. Tình trạng đăng tải thông tin sai sự thật, làm nhục, vu khống tổ chức, cá
nhân tràn lan trên không gian mạng nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu,
dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc về nhân mạng, tinh thần, thậm chí ảnh hưởng tới
chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. (2) Ngày càng
xuất hiện nhiều cuộc tấn công mạng với quy mô lớn, cường độ cao, gia tăng về
tính chất nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội. Khủng bố mạng nổi lên như một thách thức đe dọa
nghiêm trọng tới an ninh quốc gia. Hoạt động phạm tội trên không gian mạng ngày
càng gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế,
ảnh hưởng đến tư tưởng, văn hóa, xã hội. (3) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về an ninh mạng chưa được xây dựng, các văn bản hiện hành chưa đáp ứng được yêu
cầu phòng ngừa, đấu
tranh, xử lý các hành vi sử dụng không gian mạng vi phạm pháp luật.
Sơ lược một số vấn đề nêu trên để thấy rằng Việt Nam
xây dựng và ban hành luật An ninh mạng là cần thiết, nếu không muốn nói là đã
muộn hơn so với yêu cầu thực tế tình hình của đất nước đặt ra.
Hỏi: Vậy nội dung cốt lõi quan trọng của luật An ninh
mạng nước ta là gì?
Trả lời: Luật An ninh
mạng gồm 07 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh
mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử
lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triến khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và
quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bảo vệ an
ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là một
trong những nội dung đặc biệt quan trọng của Luật An ninh mạng. Quy định đầy đủ
các biện pháp, hoạt động bảo vệ tương xứng với mức độ quan trọng của hệ thống
thông tin này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định, lĩnh vực liên quan, quy định
các biện pháp như thẩm định an ninh mạng, đánh giá điều kiện, kiểm tra, giám
sát an ninh và ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia.
Để bảo vệ tối
đa quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, Luật An ninh mạng đã dành 01 chương (Chương III) quy
định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ
đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử
lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối
trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng,
chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông
tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian
mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh,
trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống
chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu
tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm buôn bán,
kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.
Chương IV của
Luật An ninh mạng tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh
mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là
các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai,
hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ
chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế
cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt
chẽ, sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá
nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên
cứu, phát triển an ninh mạng, phát triên công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng
nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ
trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này.
Hiện nay, dữ
liệu của nước ta trên không gian mạng đã và đang bị sử dụng tràn lan với mục
đích lợi nhuận mà Nhà nước chưa có đủ hành lang pháp lý để quản lý, thậm chí là bị sử dụng vào
các âm mưu chính trị hoặc vi phạm pháp luật. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm
ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định
doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng
internet và các dịch vụ giá trị gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có
hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của
người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra
phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính
phủ.
Nguồn nhân
lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của
công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V Luật An ninh mạng đã quy định đầy đủ các
nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng
chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng
chất lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh
mạng.
Trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng được quy định rõ trong Luật An ninh mạng,
tập trung vào trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được
bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các
bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ
các biện pháp
được phân công để hướng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các
hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.
Hỏi: Từ nội dung
chính của Luật An ninh mạng, các ông cho biết thêm nó sẽ có ý nghĩa như thế nào khi
đưa vào cuộc sống?
Trả
lời: Luật An ninh mạng được thông qua có ý nghĩa, tác dụng sau đây:
Thứ nhất, là cơ sở
pháp lý quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia; xử lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật, như: (1) Chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao
gồm sử dụng không gian mạng tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc,
lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, ví dụ như thông tin kích động lôi kéo tụ tập đông người, gây
rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan,
tổ chức, gây mất ổn định về an ninh trật tự... (2) Các hành vi xuyên tạc lịch
sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc
phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; (3) Các hành vi
phát tán thông tin gây hại cho tổ chức, cá nhân, gồm: thông tin sai sự thật gây
hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây
khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác; (4) Các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội như sử
dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng
tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân
tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi giục, lôi kéo, kích động người
khác phạm tội. (Những hành vi này đã được quy định rải rác, cụ thể trong 29
Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017). (5) Các hành vi tấn công
mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng và liên quan như sản xuất, đưa vào sử dụng
công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động
của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống
xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử...
Thứ hai, nhằm bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được quy định trong Luật An ninh mạng là
hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn,
ngưng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh
mạng. Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia được giao cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, trực tiếp là lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ
Công an, lực lượng Tác chiến Không gian mạng thuộc Bộ Quốc phòng. Để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp
luật trong nước, Luật An ninh mạng cũng giao Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Ban Cơ yếu Chính phủ, các bộ, ngành chức năng trong việc thẩm định, đánh
giá, kiếm tra, giám sát, ứng phó, khắc phục sự cố đối với hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia.
Thứ ba, nhằm phòng,
chống tấn công mạng. Luật An ninh mạng là văn bản Luật đầu tiên quy định khái
niệm của hoạt động “tấn công mạng”. Theo đó “Tấn công mạng” là hành vi
sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để phá
hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy
tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ
liệu, phương tiện điện tử”. Đồng thời, quy định các nhóm hành vi cụ thể liên
quan tới tấn công mạng tại Điều 17, 18, 19, 20 và Điều 21; quy định cụ thể các
nhóm giải pháp cụ thể để phòng, chống tấn công mạng, quy định trách nhiệm cụ
thể của cơ quan chức năng, chủ quản hệ thống thông tin. Như vậy:
-
Hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước hoạt
động tấn công mạng theo quy định của Luật An ninh mạng.
-
Các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ tương
xứng với tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
-
Quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước các hành
vi tấn công mạng.
- Luật
An ninh mạng cũng quy định cụ thể cơ chế phối hợp phòng, chống tấn công mạng
của các bộ, ngành chức năng, xác định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ trong phòng, chống tấn công mạng
Hỏi: Với ý nghĩa tác dụng mà luật An ninh
mạng đem lại tốt đẹp như thế vậy tại sao lại có một số luồng ý kiến trái chiều
cho rằng luật An ninh mạng là không cần
thiết vì nó là Công cụ “chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”, “đàn áp
bất đồng chính kiến”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh
nghiệp”, “thêm giấy phép con”, “lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”… để kích động người dân biểu tình chống đối ?
Trả lời: Việc này tôi cho rằng cũng rất là bình thường thôi,
nếu chịu khó nghiên cứu và quan sát kỹ thì bất cứ Bộ Luật nào cũng nhắm vào đối
tượng cần bảo vệ, hành lang pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật,
do đó:
Những người thường xuyên lợi dụng không gian mạng để
chống đối Việt Nam, làm ăn bất hợp pháp, hoạt động tội phạm mạng sẽ ra sức
tuyên truyền, xuyên tạc chống đối là đương nhiên, bởi lẽ khi luật được thông
qua, đi vào cuộc sống thì không gian mạng sẽ được kiểm soát chặc chẽ hơn, thông
tin lành mạnh hơn, không còn là mãnh đất màu mỡ để chúng có thể lợi dụng hoạt
động chống phá, làm ăn phi pháp, hái ra tiền…đơn cử như các hoạt động tung tin
đồn thất thiệt câu “Like” thu hút người xem để hưởng tiền quảng cáo, hay có chủ
đích nhằm phá hoại kinh tế, làm rối loạn trật tự xã hội sẽ được kiểm soát xử lý
tốt hơn… bằng chứng cụ thể nhất là nội dung luật An ninh mạng không hề cấm đoán
việc sử dụng Facebook, Google, tạo rào cản trong kinh doanh,
chống lại loài người ... vậy mà bọn chúng vẫn “ra rả” tuyên truyền, xuyên tạc
mãi.
Xin chân thành cám ơn các ông đã có
buổi trò chuyện cung cấp thông tin cho Blog Trà Vinh quê em!