TRÀ VINH QUÊ EM https://travinhqueem.blogspot.com

Advertisement

Pages

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2022

CẦN CHẤP HÀNH NGHIÊM QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG, CẢI TẠO, NÂNG CẤP CÔNG TRÌNH TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh có 116 cơ sở tôn giáo Phật giáo Bắc tông (gồm 105 chùa, 06 tịnh xá, 03 tịnh thất, 01 thiền viện và 01 niệm Phật đường), 04 cơ sở tôn giáo Phật giáo Nam tông Kinh. Thời gian qua, xuất hiện tình trạng nhà tu hành, phật tử tự ý mua đất ngoài cơ sở tôn giáo, cất nhà ở hoặc cải tạo nhà cũ, xây dựng nhà thờ dòng họ và trang trí giống như một cơ sở tôn giáo hoặc có ý định thành lập chùa nhưng không thông qua Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không  xin phép chính quyền địa phương và thực hiện các thủ tục theo quy định pháp luật có liên quan. Qua khảo sát của địa phương, hiện nay có 17 địa điểm nhà tu hành, phật tử xây dựng, sửa chữa nhà ở, nhà thờ dòng họ trang trí giống như cơ sở tôn giáo. Một số điểm lợi dụng việc thờ cúng, tu tại gia đã tụ tập đông người sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật. Khi chính quyền địa phương phát hiện, yêu cầu các đương sự cam kết không được sửa chữa, cải tạo nơi ở gia đình thành cơ sở tôn giáo, tụ tập đông người để sinh hoạt tôn giáo khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền thì vẫn còn một số trường hợp không chấp hành.

Một hình thức cơi nới, biến gia thành tự ở thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

Hoạt động trên đã vi phạm Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Đất đai; Luật xây dựng, cụ thể: Theo Điều 58 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo thì: Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thực hiện như quy định của pháp luật về xây dựng đối với các công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng; việc tu bổ, phục hồi cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc các cơ sở này thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.

Theo đó, quy định của Luật Xây dựng thì việc xây dựng cơ sở tôn giáo phải xin phép xây dựng theo quy định. Đồng thời, cơ sở tôn giáo phải được xây dựng trên đất sử dụng vào mục đích tôn giáo. Do đó, nếu xây dựng cơ sở tôn giáo trên đất không được sử dụng vào mục đích tôn giáo thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022; nếu xây dựng cơ sở tôn giáo trên đất sử dụng vào mục đích tôn giáo nhưng không xin phép xây dựng thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng.

Do đó, các nhà tu hành, phật tử muốn xây dựng, sửa chữa công trình tín ngưỡng, tôn giáo phải có đơn gửi đến Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thực hiện các thủ tục hành chính theo quy định pháp luật có liên quan. Mọi hoạt động tự ý xây dựng mới, sửa chữa, cơi nới, cải tạo nhà cũ trang trí như một cơ sở tôn giáo, tập trung đông người để sinh hoạt tôn giáo khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định.

Trà Vinh Quê Em.

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ TUYÊN NGÔN CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA

 

Vừa qua, một số người Khmer trên địa bàn huyện Trà Cú, Cầu Ngang đã tổ chức cái gọi là “Kỷ niệm 15 năm ngày Liên Hợp quốc thông qua Bản tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa”, trong đó trương băng rôl, biểu ngữ, sử dụng áo thun có nội dung như trên cho rằng người “Khmer Krom” là dân tộc bản địa. Những hoạt động này đã được các kênh thông tin trên mạng xã hội, báo đài của các tổ chức bên ngoài như VOKK, The Prey Nokor New, Khmer - K21, KKCCTV… đăng tải, đưa thông tin tuyên truyền sai sự thật về tình hình trong dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, gây ra ngộ nhận về vấn đề dân tộc ở Việt Nam.


          Số người này cho rằng Chính phủ Việt Nam đã tham gia ký Bản tuyên ngôn của Liên Hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa là đồng nghĩa với công nhận người Khmer là dân tộc bản địa nên họ tổ chức kỷ niệm để hưởng ứng ngày này.

          Nhận thức như trên là hoàn toàn sai với thực tế, đây là âm mưu, ý đồ của các tổ chức phản động, muốn lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, kích động người Khmer đòi quyền dân tộc bản địa và sâu xa hơn là tiến tới đòi ly khai, tự trị, thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom”, phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ, làm suy yếu quốc gia, dân tộc Việt Nam.

          Vì Đảng, Nhà nước Việt Nam đã khẳng định rằng: Việt Nam là quốc gia độc lập, có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số; Đảng, Nhà nước ta nhất quán với chủ trương bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, kích động gây chia rẽ dân tộc (Điều 5, Hiến pháp 2013). Việc Chính phủ Việt Nam ký Bản Tuyên ngôn của Liên Hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa là sự thể hiện tinh thần trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế, thể hiện sự đồng cảm trước việc một số dân tộc bản địa trên thế giới còn bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công chứ không phải ký kết Bản tuyên ngôn này để công nhận một dân tộc thiểu số nào đó ở Việt Nam (trong đó có dân tộc Khmer) là dân tộc bản địa. Những hành vi tuyên truyền thông tin sai sự thật gây phương hại đến cá nhân, tổ chức, quốc gia đều phải được xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.

Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển về mọi mặt, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, trong đó vùng đồng bào dân tộc Khmer cũng có điều kiện để phát triển toàn diện. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận người Khmer đời sống còn thấp hơn so với mặt bằng chung, chính vì vậy mà Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng thực hiện các chính sách, chương trình, đề án trên mọi lĩnh vực để thu hẹp sự chênh lệch này.

Việc một số người lợi dụng các “sự kiện” để tổ chức tuyên truyền, ủng hộ các tổ chức bên ngoài là hành vi vi phạm pháp luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều bị lên án và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Do đó, mọi người dân cần nâng cao cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của các đối tượng lợi dụng những “sự kiện” để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, có nhận thức đúng đắn về chính sách của Đảng, Nhà nước ta, không tin, không tham gia, không làm theo các hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Trà Vinh Quê Em.

                                       

NGUY CƠ ĐỐI MẶT VỚI NGƯỜI DÂN KHI XUẤT NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP SANG TRUNG QUỐC

 

          Thời gian qua, người Trà Vinh xuất nhập cảnh trái phép sang Trung Quốc tương đối nhiều, theo số liệu khảo sát từ đầu năm 2020 đến tháng 9/2022 có 118 người có hộ khẩu thường trú tại địa bàn tỉnh Trà Vinh lao động trái phép, không được phía Trung Quốc cho cư trú và bị trục xuất về Việt Nam. Tình trạng công dân xuất nhập cảnh trái phép ngoài việc vi phạm các quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh, còn tiềm ẩn nhiều vấn đề gây mất an ninh trật tự và công tác phòng chống dịch bệnh.

          Đối tượng bị lôi kéo phổ biến nhất là những phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 40, có sức khỏe tốt nhưng đang gặp khó khăn về kinh tế, đang mâu thuẫn trong hôn nhân để dụ dỗ sang Trung Quốc làm việc với mức lương cao mà không cần phải làm các thủ tục, giấy tờ về xuất nhập cảnh hoặc nộp hồ sơ qua các tổ chức có thẩm quyền tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam để làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.


          Hành vi xuất nhập cảnh trái phép của công dân là vi phạm pháp luật của Việt Nam, có thể bị xem xét xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 18 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình về hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định của pháp luật” với mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Đồng thời, tại Điều 347 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép hoặc ở lại Việt Nam trái phép, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm". Ngoài ra, tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép thì bị phạt tù từ 01 đến 15 năm, theo Điều 348 Bộ luật Hình sự.

          Bên cạnh đó, tình trạng công dân Việt Nam xuất nhập cảnh trái phép sang Trung Quốc còn vi phạm pháp luật của nước sở tại nên không được Trung Quốc cấp các giấy tờ về cư trú để lao động lâu dài, hoặc phải đối mặt với nhiều rủi ro như: Bị bóc lột sức lao động, bị ép lương hoặc tệ hơn sẽ là nạn nhân của các vụ buôn bán người và phải thường xuyên trốn tránh sự kiểm tra của các cơ quan chức năng phía Trung Quốc… Trường hợp bị bắt sẽ bị xử lý vi phạm, trục xuất về nước theo quy định của pháp luật Trung Quốc.

          Do đó, người dân có như cầu xuất cảnh ra nước ngoài tìm kiếm việc làm cần chấp hành đúng quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của nước sở tại và nên thông qua các tổ chức hợp pháp, cơ quan quản lý nhà nước trong tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Trung tâm Giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh - Công an tỉnh để được hướng dẫn thực hiện các thủ tục về xuất nhập cảnh theo đúng quy định của pháp luật, tránh nghe theo các đối tượng xấu, lôi kéo, dụ dỗ xuất nhập cảnh trái phép mà vi phạm pháp luật.

Trà Vinh Quê Em.

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2022

HOẠT ĐỘNG QUAN TÂM, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH

        Trà Vinh hiện có trên 2.000 doanh nghiệp trong, doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài đang hoạt động, số lượng lao động trong các doanh nghiệp trên 73.000 người, chủ yếu là lao động phổ thông, đa số còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong năm 2021 do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 phải thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian dài nên việc làm, thu nhập, đời sống của lao động ở các doanh nghiệp càng khó khăn hơn, là điều kiện để các đối tượng xấu xuyên tạc, nói xấu chính quyền, địa phương.

          Thời gian qua, với sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, cùng với sự đồng thuận, cố gắng của các doanh nghiệp và công nhân lao động trên địa bàn tỉnh, tình hình dịch bệnh đến nay đã được kiểm soát, doanh nghiệp được phục hồi, hoạt động ổn định. Trong đó, hoạt động quan tâm, chăm lo đời sống của công nhân lao động luôn được các ngành chức năng thực hiện tốt, nhất là Liên đoàn Lao động tỉnh đã thực hiện nhiều hoạt động hỗ trợ cho công nhân có hoàn cảnh khó khăn, điển hình như:

Một số hoạt động của Liên đoàn Lao động hỗ trợ người lao động khó khăn

      Trong năm 2021, Công đoàn Khu kinh tế tại Khu công nghiệp Long Đức đã thực hiện nhiều hoạt động như: thăm hỏi, động viên và hỗ trợ cho đoàn viên, công nhân lao động là các trường hợp F0, F1, F2 có hoàn cảnh khó khăn và tại các khu phong tỏa với tổng số tiền là 455.500.000 đồng; tặng 2.290 phần quà cho đoàn viên, người lao động tham gia thực hiện “3 tại chỗ” là nhu yếu phẩm, trái cây, sữa, khẩu trang y tế với số tiền 137.400.000 đồng nhằm động viên đoàn viên, công nhân lao động yên tâm ở lại Công ty làm việc đảm bảo thực hiện các biện pháp an toàn phòng, chống dịch COVID-19 theo phương án “3 tại chỗ”; tặng 2.230 phần quà (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng 30 phần; Liên đoàn Lao động tỉnh tặng 2.200 phần), triển khai “Gói an sinh Công đoàn” hỗ trợ Công đoàn viên, lao động bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19 với 6.000 phần quà do Liên đoàn Lao động tỉnh phân bổ, tổng giá trị các phần quà trên là 02 tỷ đồng.

          Phát huy kết quả đạt được, 06 tháng đầu năm 2022, Công đoàn Khu Kinh tế đã vận động các mạnh thường quân tặng 2.550 phần quà cho lao động có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp tết Nguyên đán Nhâm Dần – 2022, với tổng số tiền 765.000.000 đồng; phối hợp với các Công đoàn cơ sở tham gia phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho 10.462 lao động; bàn giao 02 căn nhà “Mái ấm Công đoàn” cho 02 Công đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn về nhà ở thuộc Công đoàn cơ sở Công ty TNHH MTV PCT Việt Nam; Chi nhánh Công ty TNHH Yazaki EDS Việt Nam tại Trà Vinh. Đồng thời, tiếp tục đề nghị Liên đoàn Lao động tỉnh hỗ trợ kinh phí xây dựng 02 căn nhà “Mái ấm Công đoàn” cho đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn về nhà ở; vận động Liên đoàn Lao động Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà “Mái ấm Công đoàn” với kinh phí 50.000.000 đồng; vận động người lao động đóng góp quỹ “Mái ấm Công đoàn” với số tiền trên 25.000.000 đồng. Các Công đoàn cơ sở vận động đoàn viên, người lao động đóng góp hỗ trợ đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn do nhà bị cháy, bị bệnh hiểm nghèo với số tiền trên 172 triệu góp phần giúp đỡ giải quyết cho đoàn viên giảm bớt khó khăn trước mắt, ổn định cuộc sống.

          Đặc biệt, ngày 19/6/2022, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Trà Vinh, Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức Hội nghị gặp gỡ, đối thoại giữa Lãnh đạo tỉnh với công nhân lao động năm 2022 do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì. Tại buổi gặp gỡ, đối thoại có 13 câu hỏi đặt ra với lãnh đạo tỉnh liên quan đến các vấn đề về: Giải quyết chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho công nhân lao động; chính sách hỗ trợ tín dụng; đào tạo nghề; chất lượng bữa ăn của công nhân; xây dựng nhà ở, nhà trẻ, trường học, nơi khám chữa bệnh cho công nhân lao động; về hoạt động “tín dụng đen”; tình trạng trốn đóng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp, cơ sở gia công; về bảo đảm an ninh, trật tự an toàn giao thông tại khu công nghiệp vào giờ cao điểm… Qua đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành theo chức năng, nhiệm vụ tiếp tục quan tâm giải quyết những vấn đề vướng mắc, khó khăn của công nhân lao động theo quy định, giải quyết dứt điểm hoặc có chuyển biến cụ thể trong thời gian tới.

          Với những hoạt động thiết thực trên, cho thấy sự quan tâm, chăm lo hỗ trợ người lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Trà Vinh được các cấp, các ngành thực hiện thường xuyên, kịp thời trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Từ đó đời sống công nhân lao động từng bước ổn định, nâng cao; điều kiện làm việc, sinh hoạt được cải thiện và có vai trò, vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; xóa bỏ các luận điệu xuyên tạc của kẻ xấu.

Trà Vinh Quê Em.

 

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

NẾU KHÔNG CÓ CHỦ QUYỀN THÌ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN CÓ TỒN TẠI KHÔNG?

Về cơ bản, có thể hiểu “Chủ quyền” quốc gia là quyền làm chủ đối với quốc gia (đối với một hoặc nhiều cộng đồng người trên một phạm vi, vùng lãnh thổ), là thuộc tính chính trị - pháp lý cơ bản, không thể tách rời khỏi quốc gia, với nhiều nhóm quyền cơ bản như “quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ”, “quyền tự quyết”, “quyền độc lập”…“Nhân quyền” có thể hiểu là những quyền tự nhiên của con người, như “quyền được sống”, “quyền tự do”, “quyền bình đẳng”, “quyền mưu cầu hạnh phúc”

 Thời gian qua, một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thường rao giảng về các giá trị dân chủ, nhân quyền “xa lạ”; quy chụp, đánh đồng các giá trị ấy cho mỗi quốc gia hay lợi dụng nó như một chiêu bài để can thiệp công việc nội bộ của quốc gia khác vì nhiều mục đích khác nhau. Một số cá nhân tin và đánh đồng các giá trị ấy như một “liều thuốc tiên” để “lột xác”, tiến bộ vượt bậc tại các quốc gia, dân tộc. Nhưng với những biến động chính trị, xã hội tại Đông Âu, Trung Đông làm tất cả phải nhìn nhận đúng đắn hơn về mối liên hệ: “Chủ quyền quốc gia, dân tộc” là điều kiện, tiền đề quyết định việc thực thi “dân chủ, nhân quyền” của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Dân chủ và nhân quyền là những giá trị chung của xã hội loài người, là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, không phải của riêng một giai cấp hay một quốc gia nào tạo ra để áp đặt cho quốc gia khác. Vì thế, việc thực thi những giá trị dân chủ, nhân quyền đòi hỏi phải có sự phù hợp giữa những giá trị cơ bản (được thế giới công nhận) với những điều kiện đặc thù mỗi quốc gia, dân tộc thì đó mới thật sự là những giá trị dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất, thiêng liêng nhất được các cộng đồng người công nhận.

Khi những giá trị dân chủ, nhân quyền được điều khiển bởi động cơ, mục đích, lợi ích của một số quốc gia, tổ chức, cá nhân nào đó, tự cho mình là văn minh, tiến bộ hơn với những hành động không trong sáng thì đó không còn là những giá trị dân chủ, nhân quyền đúng nghĩa nữa. Thực tế cho thấy, những cuộc biến động chính trị, bất ổn xã hội như thể chế chính trị bị lật đổ, hạ tầng kinh tế bị phá hủy, sự nổi dậy của các tổ chức khủng bố và chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Iraq, Afganishtan, Tunisia, Lybia, Syria… đều có chung 03 đặc điểm: Một là chủ quyền quốc gia, dân tộc bị can thiệp; Hai là, mang màu sắc ban phát các giá trị “dân chủ, nhân quyền” xa lạ với các dân tộc ấy; Ba là, cùng một kết cuộc: Các giá trị dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… của hàng triệu người bị tước đoạt. Thực tế đó đã khẳng định: Nếu không có chủ quyền quốc gia, dân tộc thì mọi giá trị dân chủ, nhân quyền đều bị chà đạp và không được thực thi, dù đó là những giá trị thiêng liêng và cơ bản của mỗi con người ở bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào.

Việc quy chụp, xem “dân chủ, nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” và “ban phát” những giá trị xa lạ ấy cho các quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền là một sự đánh tráo khái niệm, phản khoa học và làm mất đi những giá trị dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất của con người.

Trong sự phát triển vũ bảo của kỷ nguyên 4.0, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, có rất nhiều vấn đề phức tạp mà các quốc gia không thể tự mình giải quyết được, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền. Nhưng sự hợp tác ấy phải đặt trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền cũng như những giá trị về đạo đức, truyền thống của mỗi quốc gia với nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự hài hòa về lợi ích, đôi bên cùng có lợi. Không một quốc gia nào được phép cho mình là “văn minh hơn”, “tiến bộ hơn”, “dân chủ, nhân quyền hơn” để “ban phát” những giá trị ấy như một công cụ để gây sức ép trong các vấn đề về kinh tế, thương mại, nhân đạo… nhằm che đậy các mưu đồ chính trị.

Hình ảnh hoang tàn của đất nước Syria sau làn sóng “Mùa xuân Ả Rập” để thực hiện dân chủ, nhân quyền

Việt Nam là quốc gia có chủ quyền, thực tiễn cách mạng ở Việt Nam cho thấy những giá trị dân chủ, nhân quyền luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta tôn trọng, vận dụng, phát huy một cách linh hoạt, phù hợp với kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức của người Việt qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử và gắn kết chặt chẽ, chủ động hội nhập với các giá trị dân chủ, nhân quyền của thế giới. Những rao giảng về giá trị dân chủ, nhân quyền “xa lạ” như “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”… của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước chỉ là những luận điệu, hành động nhằm che đậy động cơ, mục đích xấu phục vụ nhu cầu cá nhân, bỏ qua các lợi ích của cộng đồng, gây ra bất ổn xã hội và “giật đổ” các giá trị Việt Nam nghìn năm văn hiến.

Những giá trị dân chủ, nhân quyền “xa lạ” cùng với việc rao giảng, ban phát của những tổ chức, cá nhân không phù hợp với xã hội Việt Nam, tất yếu sẽ bị vòng quay của lịch sử và xã hội Việt Nam đào thải!!!

Hai khái niệm nói trên dù không cùng chung một hệ giá trị nhưng luôn tồn tại song song, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết, tác động qua lại, bổ trợ lẫn nhau và không thể tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người và của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong đó: Chủ quyền quốc gia là cơ sở, tiền đề và điều kiện tiên quyết để bảo vệ, thực thi nhân quyền; nhân quyền tuyệt đối không thể tách rời hay được nâng quan điểm lên thành một giá trị độc lập với vị trí cao hơn chủ quyền trong suốt quá trình hình thành, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên trong thời đại toàn cầu hóa và xu hướng hòa nhập hiện nay, những luận điểm, luận cứ về chủ quyền và nhân quyền nêu trên ít nhiều đã bị một số cá nhân, tổ chức lợi dụng, làm sai lệch, tạo sự mơ hồ trong nhận thức của Nhân dân nhằm phục vụ cho những mục đích không hề tốt đẹp.

Chúng ta là người Việt Nam hãy có nhìn nhận đúng đắn hơn, không nghe theo những luận điệu xuyên tạc, sai trái của kẻ xấu, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc và các giá trị tốt đẹp của người Việt Nam.

                                                                        Trà Vinh Quê Em.


Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2022

SỰ THẬT VỀ VỤ TRANH CHẤP ĐẤT TẠI KHU VỰC CHỢ NHỊ TRƯỜNG, XÃ NHỊ TRƯỜNG, HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

 

Ngày 20/6/2022, cơ quan chức năng tổ chức cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ Thạch Nhứt, ấp Nô Lựa A, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Qua tìm hiểu, nguồn gốc đất bị cưỡng chế thu hồi cụ thể như sau: Năm 1979, ông Thạch Sốc (cha của ông Thạch Nhứt) sang nhượng toàn bộ thửa đất trên cho bà Thạch Thị Séte (chị ruột ông Thạch Sốc), từ đó về sau gia đình Thạch Nhứt không có hoạt động khai thác gì trên thửa đất này. Thực hiện Chỉ thị 299/TTg, ngày 11/10/1980 của Thủ tướng Chính phủ về đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất thì các hộ dân khu vực này đều đi kê khai, trong đó bà Thạch Thị Séte cũng đã kê khai phần đất trên vào năm 1983, thuộc thửa 925, tờ bản đồ số 02, diện tích 3.090 m2, loại đất trồng màu. Năm 1984, UBND xã Nhị Trường trưng dụng đất của 07 hộ dân khu vực này để quy hoạch làm chợ và sân vận động, riêng phần đất của bà Thạch Thị Séte mua của ông Thạch Sốc được nhà nước trưng dụng là 1.176 m2, số còn lại bà Thạch Thị Séte phân lô bán cho các hộ khác để ở. Đến năm 2005, khi có chủ trương bồi thường giá trị quyền sử dụng đất cho 07 hộ dân có đất được trưng dụng nêu trên, thì ông Thạch Nhứt phát đơn xin lại đất, hoặc được nhận tiền bồi thường đất vì cho rằng trước đây chỉ chuyển nhượng cho bà Thạch Thị Séte 2.000 m2, từ đó phát sinh tranh chấp giữa hộ ông Thạch Nhứt với hộ bà Thạch Thị Lài (con bà Thạch Thị Séte).

Để giải quyết vụ tranh chấp trên các cơ quan chức năng từ xã đến tỉnh đã xác minh nhiều nguồn tin từ người dân lớn tuổi sống khu vực Chợ Nhị Trường, họ đều xác nhận nguồn gốc đất trên đã được ông Thạch Sốc bán cho bà Thạch Thị Séte, vì ông Sốc và bà Séte là người trong thân tộc nên việc mua bán khi mua bán chỉ là hợp đồng miệng. Sau đó bà Thạch Thị Séte phân lô bán cho người khác và gia đình ông Thạch Sốc không có tranh chấp gì, riêng phần đất 1.176 m2 còn lại nếu không nằm trong khu quy hoạch xây dựng chợ và sân vận động thì có lẽ bà Thạch Thị Séte cũng đã phân lô bán.

Quá trình giải quyết tranh chấp các cơ quan chức năng yêu cầu ông Thạch Nhứt đưa ra cơ sở chứng cứ để chứng minh phần đất trên là của mình, nhưng không có giấy tờ chứng minh. Ngoài ra, gia đình cho rằng không biết chủ trương của Nhà nước về kê khai ruộng đất vào năm 1983, tuy nhiên, những phần đất khác của gia đình ông Nhứt lại được kê khai vào thời điểm năm 1983. Hơn nữa, theo người dân cung cấp khi bà Thạch Thị Séte còn sống thì Thạch Nhứt không khiếu nại, mà đến bà Thạch Thị Séte chết mới thưa kiện… Từ những cơ sở nêu trên các cơ quan chức năng căn cứ vào số liệu đo đạc năm 1983 để giải quyết bồi thường cho bà Thạch Thị Lài vào năm 2010.

Do đó, từ năm 2010 phần đất trên đã thuộc quyền sử dụng quản lý của Nhà nước, ông Nhứt và gia đình không còn liên quan đến phần đất trên, nhưng cố tình kéo dài vụ việc, cản trở việc sử dụng đất bằng cách chôn trụ kéo lưới B40 bao lại phần đất của Nhà nước đã bồi hoàn xong và thu hồi, dù được tuyên truyền, giải thích nhiều lần. Và theo người dân khu vực chợ Nhị Trường việc Nhà nước cưỡng chế buộc khắc phục hậu quả là đúng theo quy định pháp luật, được người dân đồng tình cao.

Tuy nhiên, ngày 20/6/2022 trên kênh Truyền hình Trung tâm Văn hóa Kampuchea Krom tại Úc (KKCC TV) xuất hiện một số đối tượng xấu tổ chức “họp trực tuyến” bàn về việc Nhà nước cưỡng chế thu hồi đất tại ấp Nô Lựa A, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Trong đó, nhóm người này bàn luận nhiều thông tin có liên quan đến nguồn gốc đất, quá trình phát sinh tranh chấp và việc giải quyết của cơ quan chức năng. Ông Thạch Nhứt thì luôn cho rằng “chính quyền cướp đất của người Khmer”, gây sự hiểu lầm cho cộng đồng mạng và xuất hiện nhiều bình luận có nội dung xấu, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước.

Thông tin bịa đặt của số đối tượng xấu trên mạng xã hội liên quan vụ tranh chấp đất tại khu vực chợ Nhị Trường

Qua đây cho thấy, nguồn gốc đất là quá rõ ràng, cơ quan chức năng cũng giải quyết đúng theo quy định của pháp luật, nhưng với mục đích cá nhân, ý đồ xấu mà ông Thạch Nhứt cùng một số đối tượng khác cố tình xuyên tạc, hướng lái dư luận cho rằng “Chính quyền cướp đất của dân tộc Khmer”. Thiết nghĩ cộng đồng mạng phải thận trọng, có cái nhìn nhận sự việc khách quan, hiểu rõ bản chất của số đối tượng xấu trên, không tin, nghe theo hoặc có bình luận sai sự thật, ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cơ quan chức năng, đồng thời việc đưa tin, sai sự thật là hành vi vi phạm pháp luật.

Trà Vinh Quê em.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG

 

Thời gian gần đây, khi Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đẩy mạnh công cuộc chỉnh đốn Đảng. Qua đó, có hàng loạt cán bộ cao cấp từ Bí thư, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, đến Ủy viên Bộ Chính trị vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước đã bị xử lý nghiêm minh; các thế lực thù địch, đối tượng xấu lại đăng các bài viết, bài nói xuyên tạc công tác cán bộ của Đảng, cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ thời gian qua là do sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng; bóp méo, xuyên tạc rằng đó chỉ là các "phe cánh triệt tiêu nhau", công tác cán bộ của Đảng là không dân chủ, thiếu minh bạch, việc lựa chọn cán bộ của Đảng chủ yếu là theo phe nhóm, con ông cháu cha mà đưa lên chứ không phải vì tài năng hay đạo đức; việc quy hoạch, sắp xếp cán bộ chỉ nhằm “thanh trừng bè phái”, “đấu đá nội bộ”, “lợi ích nhóm”... Đặc biệt, các đối tượng xấu triệt để lợi dụng, khoét sâu những bức xúc của nhân dân trước tình trạng một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chính quyền các cấp tham nhũng, tiêu cực; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... để tung ra những bài viết mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, quy chụp mọi sai lầm, khuyết điểm, yếu kém trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.

Ảnh minh họa.

Trước tiên phải khẳng định rằng những luận điệu xuyên tạc trên là sai trái, không khách quan, vì nhìn nhận lại lịch sử hơn 90 năm rèn luyện phấn đấu, xây dựng và trưởng thành cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là "nhiệm vụ then chốt", trong đó công tác cán bộ là "then chốt của then chốt". Bởi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Công tác xây dựng Đảng được triển khai thực hiện thường xuyên, liên tục và lần lượt trên cả hai mặt "xây" và "chống”; trong đó "xây" là cơ bản, lâu dài, "chống" là quan trọng, cấp bách. Hai nhiệm vụ này luôn song hành, kết hợp nhuần nhuyễn nhằm làm trong sạch đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Nguyên tắc, tư tưởng nhất quán và việc làm thường xuyên của Đảng ta đối với cán bộ, đảng viên là: Làm tốt thì biểu dương, khen thưởng; làm chưa tốt, nhắc nhở, phê bình; vi phạm sẽ phải xử lý nghiêm minh, kết luận rõ đến đâu xử lý đến đó, không có "vùng cấm", hoặc ngoại lệ. Mục đích trong sáng, cao nhất của việc duy trì nghiêm kỷ luật Đảng là ngăn chặn cán bộ, đảng viên vi phạm chứ không phải là sự “thanh trừng”, "bài xích", "hạ bệ" nhau trong hàng ngũ nội bộ như các đối tượng xấu đã xuyên tạc. Tại khoản 1, Điều 2, Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý, kỷ luật đảng viên vi phạm, xác định: "Tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Đảng viên ở bất cứ cương vị, nếu vi phạm kỷ luật của Đảng đều phải được xem xét, xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời". Có nghĩa là mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng; không có bất kỳ lực lượng, thành phần, cá nhân ngoại lệ, đứng ngoài, đứng trên kỷ luật Đảng. Thế nhưng, việc giữ nghiêm kỷ luật Đảng tuyệt nhiên không phải thi hành kỷ luật thật nhiều, thật nặng mà chính là một cách xây dựng, duy trì ý thức tổ chức kỷ luật trong mỗi tổ chức, cá nhân.

Cần thẳng thắn nhìn nhận dù Đảng rất coi trọng công tác cán bộ và Nhà nước pháp quyền luôn nêu cao tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật. Song, trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thời gian qua đã sa ngã, thoái hóa, biến chất. Tuy nhiên, không thể chủ quan, phiến diện dựa vào thiếu sót, khuyết điểm của một vài tập thể, cá nhân mà phủ nhận sạch trơn vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Đặc biệt, những năm gần đây, đứng trước đòi hỏi của thực tiễn, Đảng chủ trương tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo, quyết tâm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, rơi vào suy thoái, biến chất, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện quyết liệt, kiên trì, bài bản, nghiêm minh và cũng rất nhân văn. Nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp kéo dài đã lần lượt được “đưa ra ánh sáng” và xử lý đúng người, đúng tội. Ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực, việc thi hành kỷ luật cán bộ được tiến hành công khai, đúng pháp luật; không có trường hợp “trên nóng, dưới lạnh”, “vùng cấm, ngoại lệ”; với quyết tâm chính trị làm trong sạch Đảng thì việc kỷ luật một số cán bộ, đảng viên cũng như “chặt cành để cứu cây”. Từ đó, giúp  nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trước yêu cầu mới. Việc thực hành kỷ luật Đảng đã giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng tiến bộ, trưởng thành dù có “hy sinh”, đúng như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Phải kỷ luật chính đồng chí mình là điều không ai muốn, nhưng kỷ luật một vài người là để vừa giữ nghiêm kỷ cương phép nước, vừa cảnh tỉnh, cảnh báo, giáo dục, răn đe người khác tránh xa vết xe đổ của đồng chí mình”.

Qua đây cho thấy, sự quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, mọi người dân hãu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, không tin, nghe theo những lời xuyên tạc của kẻ xấu.

Trà Vinh Quê em.