TRÀ VINH QUÊ EM https://travinhqueem.blogspot.com

Advertisement

Pages

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN SỰ THẬT VÀ ĐẢO NGƯỢC CHÂN LÝ


Cứ đến dịp kỷ niệm 30/4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như “tháng Tư là tháng "vo gạo bằng nước mắt”, “mùa quốc hận-tháng tư đen”. Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc “tử tế”; một số người trong nhóm "Văn đoàn độc lập" đã xét lại lịch sử: “Có nhất thiết phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của đất nước thì quý biết nhường nào?. Nếu không cần chống Mỹ, miền Nam có giàu như Hàn Quốc không?".
 Để bạn đọc có cái nhìn chân thật khách quan, trên tinh thần tôn trọng lịch sử, giải độc những thông tin xấu, gây chia rẽ, kích động hận thù dân tộc. Blog Trà Vinh Quê Em lược trích một số ý kiến của các nhà khoa học về vấn đề này để các bạn tham khảo.
1. Để xem xét lịch sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc kháng chiến đã lùi xa 44 năm hay lâu dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới đều ghi nhận và chúng ta phải luôn khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc kháng chiến chính nghĩa, trường kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhà sử học người Pháp, kiêm chuyên gia nghiên cứu về lịch sử Đông Dương Alain Rusco cho rằng, sự kiện 30/4 “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù… để có được chiến thắng này hàng triệu người dân Việt Nam đã ngã xuống trong nhiều thập kỷ đầy cam go, quyết liệt”.
Trong cuốn hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết một trong những đặc điểm nổi bật về cuộc kháng chiến là: “Cả nước đánh Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tuyền tuyến, hậu phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân tộc kết thành một khối trong tình đồng bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung của cả dân tộc…”. Những kẻ ngày nay xuyên tạc cho rằng bên này, bên kia mới là thắng cuộc, bên này mới là giải phóng bên kia… chẳng những không hiểu cội nguồn lịch sử mà còn xúc phạm xương máu cha ông.
Trên thực tế, chính những người trong cuộc là Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; chỉ một bộ phận chống cộng, mang nặng hận thù và những kẻ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngày nay mới tin vào những luận điệu như chiến tranh ý thức hệ, nội chiến hay quan điểm lập lờ “bên nào thắng thì nhân dân đều bại”(!).
Chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã rút ra 11 “sai lầm một cách tồi tệ”, đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: "Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ”.
Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ viết: "Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975…”.
Theo các tài liệu mới được giải mật của chính quyền Mỹ, Ngày 30/12/1949, Tổng thống Mỹ S.Truman phê chuẩn một Văn kiện của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, trong đó nêu rõ: “Mục tiêu lâu dài của Mỹ là thủ tiêu ở mức độ tối đa có thể được ảnh hưởng của Cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương... Mỹ muốn thấy ở Việt Nam và Đông Dương có các nhà nước chống cộng, thân Mỹ”. Bác Hồ đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ 1950, Bác đã chỉ ra sự dính líu và can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Ðông Dương. Ðể tranh thủ hòa bình, Bác đã 11 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ S.Truman...” nhưng không có phản hồi.
Giáo sư Trần Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh. Ông viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý mà dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực”…
2. Phẫn nộ với ý kiến cho rằng "không cần chiến tranh sau này đất nước vẫn giàu mạnh", nhà sử học người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết: “Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954-1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn”.
Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói từ những người ở phía bên kia chiến tuyến sau này thừa nhận sai lầm của họ và ghi nhận chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc cũng như chiến công của những người cộng sản. Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng Việt Nam cộng hòa, sau này trả lời phỏng vấn Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, nói: “Chiến thắng 30/4 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam... không còn chiến tranh, không còn bom rơi, đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh mang lại".
Cựu Thủ tướng Việt Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận xét về việc gọi ngày 30/4 là "quốc hận" và đòi "phục quốc": "Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây... đâu mà phục quốc?".
3. Ngay cả những người Mỹ đương đại cũng luôn nhìn lịch sử với sự tôn trọng để rút ra bài học cho tương lai. Trong bài thuyết trình "Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" trình bày tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh năm 2018, Giáo sư D.G.Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard nói: “Lịch sử soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình”.
Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn,… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Quá khứ không chỉ là lịch sử mà còn là hành trang, là sức mạnh tinh thần, là dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách của mỗi người dân đất Việt. Nếu quên tổ tiên, quên công lao của thế hệ đi trước, quên những hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc thì không thể là người Việt Nam chân chính.

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

Viết về sự kiện Gạc Ma không thể gói gọn trong 1-2 ngày


Tiếp theo phần trước, Tưởng niệm các liệt sĩ Gạc Ma, nhìn lại cách truyền thông về lịch sử.
Thứ 2: Khi ghi chép diễn biến của sự kiện Gạc Ma, nếu chỉ tập trung vào những diễn biến xảy ra trong 1, 2 ngày là không đầy đủ.
Nhất là hình ảnh những người lính công binh hải quân Việt Nam quyết tâm giữ vững lá cờ Tổ Quốc trong tình cảnh “tuyệt vọng” (từ được cuốn “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” sử dụng, miêu tả sự kiện), trước họng súng hung hãn của lính Trung Quốc, là chưa đủ để lột tả hết toàn bộ chiến dịch được mang mật danh “CQ-88”  
Tất nhiên, dù sao đi nữa, hình ảnh “Vòng tròn bất tử” luôn luôn là biểu tượng tinh thần vô giá và sẽ là tượng đài hùng vĩ, mãi mãi trường tồn trong con tim, khối óc của người dân đất Việt, của bạn bè quốc tế.
Cuộc chiến đấu tự vệ chính đáng và thành quả của cuộc chiến đó diễn ra trước và sau sự kiện Gạc Ma là sự thật không nên lãng quên trong một cuốn “biên niên sử” với đúng nghĩa của nó. 
Thiết nghĩ, vì một lý do động cơ nào đó, dù cố ý hay vô tình, nếu bỏ qua những diễn biến này là có tội với anh linh các thế hệ cha anh đã ngã xuống trong sự nghiệp bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử…
Bởi vì, sự hy sinh của họ, nếu theo cách đề cập trong cuốn sách, thì có lẽ chỉ tạo cho bạn đọc một cảm nhận đó chỉ là một “nỗi đau được nhân lên ngàn lần”, trong một trận đánh, mà như lời tự sự của Thiếu tướng Lê Mã Lương: “Tôi (Thiếu tướng Lê Mã Lương) không tham gia mà phải đau đớn và trăn trở suốt nhiều năm trời…” …(?).
Tuy nhiên, điều đáng nói là những “cảm xúc” đó đã bắt nguồn từ thông tin không chính xác, thiếu kiểm chứng, nếu không muốn nói là có dụng ý xấu. 
Và vì vậy, dù vô tình hay hữu ý, điều đáng tiếc là nhóm tác giả và những cá nhân, cơ quan quản lý liên quan, đã xúc phạm đến vong linh của 64 cán bộ, chiến sỹ Công binh Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh tại Gạc Ma ngày 13/3/1988.
Các anh đã chiến đấu chống trả quân Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng và mãi mãi yên nghỉ ở nơi biển sâu Trường Sa của Tổ quốc. 
Đúng như lời phát biểu tâm huyết, thấm đẫm nước mắt của anh Lê Hữu Thảo, một trong những cựu chiến binh còn sống sót trở về từ sự kiện Gạc Ma: 
“Tôi không muốn xúc phạm đến những người đồng đội của tôi đã hy sinh. 
Họ đã chiến đấu chứ không phải là họ ngồi yên, không phải là họ nằm một chỗ, hay họ giơ tay lên hay lạy. Họ đã chiến đấu mà bảo họ đứng để làm bia hoặc là bị thảm sát thực sự là không phải” 
Thứ 3: Theo nhận xét của ông Dương Trung Quốc, cuốn sách không chỉ là một “pho sử liệu”, mà còn là một “bằng chứng đanh thép về lòng yêu nước” để bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Thế nhưng, trong cuốn sách còn có nhiều sai sót cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện, xét dưới góc độ pháp lý, với tư cách là “bằng chứng đanh thép”
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với những phát hiện, kiến nghị của một số bạn đọc đã gửi đến Nhà xuất bản Văn học và cũng đã được Nhà xuất bản tiếp thu để đính chính. 
Ngoài ra, chúng tôi xin bổ sung thêm những chi tiết sai sót cần được chỉnh lý thêm. 
Bởi vì, nhiều thuật ngữ được sử dụng trong cuốn sách còn thiếu chính xác, thậm chí không đúng, có thể gây bất lợi cho công tác tuyên truyền, giáo dục về biển, đảo, thậm chí gây bất lợi cho công cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý, ngoại giao; chẳng hạn: 
Cụm từ “chủ quyền biển đảo” là một cụm từ “cửa miệng”, không phản ánh đầy đủ và chuẩn xác về các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam đối với các vùng biển, thềm lục địa , hải đảo của Việt Nam trong Biển Đông, nhưng trong cuốn sách có rất nhiều đoạn đã sử dụng cụm từ này.
“Biển Đông” là tên riêng mà người Việt Nam dùng để gọi vùng biển nằm về phía Đông của giải đất hình chữ S, nên phải viết hoa cả 2 từ, chứ không viết là “biển Đông” như ở ngay “lời nói đầu” của cuốn sách.
Gạc Ma không phải là “đảo”, cũng giống như Chữ Thập, Châu Viên, Tư nghĩa,  Ga Ven, Xu Bi.
Chúng là những bãi cạn, những đá, lúc nổi lúc chìm. Vì vậy không nên gọi là đảo Gạc Ma…Trung Quốc đang cố tình bồi lấp để tạo nên “đảo”, dù là đảo nhân tạo.
Nên thống nhất một cách gọi cho sự kiện Gạc Ma 1988, không nên khi thì gọi là “hải chiến”, khi thì gọi là cuộc “thảm sát”, khi thì gọi là cuộc “chiến đấu”…
Nên thống nhất cách gọi các chiến sỹ hải quân làm nhiệm vụ ở Gạc Ma là những “công binh hải quân”, không nên lúc thì gọi là chiến sỹ hải quân, lúc thì gọi công binh hải quân….
Đặc biệt, trong cuốn sách có đăng toàn bộ bài viết của Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn giới thiệu “thư tịch và bản đồ cổ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa”
Chúng tôi không đánh giá thấp công trình nghiên cứu lịch sử này của tác giả. 
Tuy nhiên, với chủ ý của tác giả cuốn sách là sử dụng tài liệu này để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chúng tôi là chưa đủ sức thuyết phục về phương diện pháp lý. 
Không phải bất cứ một tài liệu lịch sử nào, bất cứ một tờ bản đồ lịch sử nào cũng đều được coi là bằng chứng pháp lý có giá trị để bảo vệ cho quyền thụ đắc lãnh thổ đối với một vùng lãnh thổ bị tranh chấp. 
Bởi lẽ, quan điểm của Việt Nam là theo nguyên tắc “chiếm hữu thật sự” mà công pháp và thực tiễn quốc tế đã và đang áp dụng, chứ không phải theo nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” mà phía Trung Quốc đang theo đuổi. 
Nếu chỉ cung cấp các thư tịch, bản đồ lịch sử mà không gắn với nội dung phân tích về nguyên tắc pháp lý quốc tế thì có thể dẫn đến tình trạng “lợi bất cập hại”, thậm chí lại có lợi cho quan điểm của Trung Quốc.
Sòng phẳng với lịch sử sẽ vừa góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định khu vực, đoàn kết dân tộc, củng cố quan hệ hữu nghị giữa 2 dân tộc Việt Nam - Trung Quốc.
Khi hai nước xung đột đối đầu, việc nói xấu, lên án chỉ trích nhau cũng là điều có thể hiểu được. 
Nhưng khi bình thường hóa quan hệ, cả hai phía đều không chủ động cùng đánh giá lại bài học lịch sử để rút ra kinh nghiệm cho mình, tránh lặp lại chiến tranh, xung đột. 
Thay vì nhìn thẳng vào quá khứ với thái độ khách quan, cầu thị, khoa học, đã có một thời gian dài, chúng ta dường như còn né tránh hay chỉ thông tin một chiều… 
Nhưng nỗi đau vẫn luôn còn đó, âm ỷ trong lòng người, càng che lấp thì càng mưng mủ. 
Và khi mâu thuẫn xung đột nổ ra ngoài Biển Đông, nó lại bùng phát.
Tất cả là do lòng yêu nước đã bị một nhóm đối tượng kích động, do người dân không được cung cấp đầy đủ thông tin. 
Trong dư luận Việt Nam ngày nay vẫn còn nhiều quan điểm, thông tin khác nhau xung quanh sự kiện Hoàng Sa 1974, cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc 1979-1989, Gạc Ma 1988 và cả những thắc mắc xung quanh quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. 
Có những luồng thông tin nguy hại đang gây chia rẽ trong xã hội, lại là chính những gì những kẻ dòm ngó lãnh thổ chúng ta đang mong muốn nhìn thấy. 
Thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta cần sòng phẳng với lịch sử, có những bước đi thích hợp đánh giá công khai các sự kiện này dưới ánh sáng Công pháp quốc tế, rút ra bài học cho mình để trả lại cho lịch sử sự chân thực vốn có của nó.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới làm nguôi ngoai vết thương chiến tranh, củng cố đại đoàn kết dân tộc, phát triển đất nước cường thịnh mà không phải lo mầm mống bạo loạn bất ổn từ bên trong. 
Với Trung Quốc, nhìn nhận khách quan các sự kiện lịch sử đó không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù, mà là hướng tới việc gìn giữ, củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị, hòa bình cùng phát triển với Trung Quốc, đồng thời cũng cảnh giác không để dẫn đến chiến tranh, xung đột hoặc lại để bản thân rơi vào tình huống bị lợi dụng.

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2019

Tưởng niệm các liệt sĩ Gạc Ma, nhìn lại cách truyền thông về lịch sử

Sau một năm ấn phẩm mang tên “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử’’ đến tay bạn đọc đã gây nhiều luồng thông tin, dư luận trái chiều, nhất là các nhận xét đánh giá về chủ trương, đối sách của quân đội và chính phủ lúc bấy giờ, thậm chí một số tổ chức, cá nhân lợi dụng các thông tin thiếu chính xác, chưa được kiểm chứng trong ấn phẩm để quy chụp chính sách của Đảng, nhà nước, quân đội là hèn nhác, bán nước, bỏ mặc tính mạng đồng đội …. Để có cái nhìn toàn diện, khách quan vấn đề trên, Blog Trà vinh quê em xin giới thiệu bạn đọc những thông tin xác thực, bổ ích qua bài viết của Tiến sỹ Trần Công Trục.
"Gạc Ma - Vòng tròn bất tử" thiếu hẳn những thông tin bối cảnh sự kiện, nhất là quyết tâm và hành động gấp rút của ta trong việc ngăn Trung Quốc bành trướng.

Năm nay, truyền thông đã đưa tin khá đậm nét và trung thực về cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới Tây Nam 1978 và trên hướng biên giới phía Bắc 1979-1989; 
Sự kiện Hoàng Sa và Gạc Ma bị Trung Quốc cưỡng chiếm năm 1974, 1988 tiếp tục được ôn lại… là những việc làm hết sức cần thiết, đáp ứng mong mỏi của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế gần xa. 
Tuy nhiên, trong dư luận cho đến nay vẫn còn lưu truyền, tồn tại nhiều thông tin thiếu chuẩn xác, thậm chí cố tình xuyên tạc sự thật, bẻ cong lịch sử;
Không loại trừ những thông tin này được tung ra nhằm phục vụ cho những động cơ chính trị đen tối, như kêu gọi biểu tình, bạo động, lật đổ, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, gây chia rẽ, thù hận giữa Việt Nam với các nước láng giềng, đặc biệt là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc…
Lòng yêu nước dù có nồng nàn, sâu sắc đến đâu mà thiếu thông tin chính xác và sự hiểu biết còn mơ hồ thì rất dễ bị lôi kéo, trở thành những kẻ phá hoại, vô tình châm ngòi cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, làm cho xã hội bất ổn, thậm chí dẫn tới những tình trạng xung đột, chiến tranh và bị chính kẻ thù lợi dụng.
Dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ đã phải hứng chịu quá nhiều đau thương và mất mát từ chiến tranh rồi.
Cái gì chúng ta có thể tránh được thì hãy cố gắng tránh, nhưng điều đó không buộc chúng phải “khép lại quá khứ” như lầm tưởng của nhiều người. 
Chúng ta chỉ có thể “gác lại quá khứ” để hướng tới tương lai. 
Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta không được phép lãng quên sự thật lịch sử mà ngược lại, phải biết tôn trọng lịch sử và những bài học được đúc kết bằng máu, nước mắt của đồng bào, đồng loại. 
Hôm nay 13/3 là ngày giỗ lần thứ 31 của 64 cán bộ, chiến sỹ công binh Hải quân nhân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống trả hành động cưỡng chiếm do quân đội Trung Quốc gây ra năm 1988 ở một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng cần phải có những nhận xét, đánh giá cuốn sách một cách thật sự khách quan và với động cơ xây dựng, biết trân trọng đúng mức công sức của những tác giả đã góp sức tạo nên tác phẩm này.
Để làm được điều đó, chúng tôi thiết nghĩ trước hết cần thống nhất về thể loại của cuốn sách. Có phải đây là một cuốn “tiểu thuyết”, thuộc thể loại văn học hay đây là một “biên niên sử”, ghi chép những diễn biến của sự kiện Gạc Ma năm 1988?
Chúng tôi chia sẻ với ý kiến của nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng đây là một “biên niên sử”:
“Nó là một sự kiện lịch sử được ghi lại như một bằng chứng đanh thép và đẫm máu về lòng yêu nước vô bờ bến của những người chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã kiên cường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc giữa biển cả mênh mông, bất chấp lực lượng của đối phương vượt trội cả về sức mạnh binh khí và sự tàn bạo, diễn ra trong bối cảnh lịch sử đầy phức tạp.” 
(“Gạc Ma- Vòng tròn bất tử-Pho sử liệu về lòng yêu nước” trang 306-307, “Thay lời kết”, cuốn “Gạc Ma- Vòng tròn bất tử”).
Có lẽ, đó chính là động cơ đích thực của nhóm tác giả khi biên soạn cuốn sách này. 
Thiết nghĩ đó là động cơ đáng được hoan nghênh, đáng được tạo điều kiện, khuyến khích và giúp đỡ từ các cơ quan quản lý nhà nước, từ tầng lớp nhân dân, từ những chuyên gia, nhà nghiên cứu liên quan.
Tuy nhiên, khi tiếp cận nội dung cuốn sách, chúng tôi cho rằng động cơ nói trên của nhóm tác giả đã không thực hiện được. 
Bởi vì, nếu đó là một “pho sử liệu”, một “bằng chứng đanh thép và đẫm máu về lòng yêu nước” thì thật đáng tiếc, cuốn sách đã chưa ghi chép, phản ánh đầy đủ và chính xác sự kiện Gạc Ma 1988, diễn ra “trong bối cảnh lịch sử đầy phức tạp”.   
Tại sao ?
Thứ nhất: Theo chúng tôi, cần ghi chép, phản ánh một cách khách quan sự kiện này để nhận diện đó là một “hải chiến” hay một “cuộc thảm sát”;
Cần nhận diện đó là hành vi “cưỡng chiếm bằng vũ lực” hay là cuộc “chiến đấu tự vệ”… thiết nghĩ các tác giả nên bổ sung thêm những thông tin liên quan đến tình hình chính trị, kinh tế, quân sự…trong nước và khu vực; 
Cần bổ sung thông tin về tương quan lực lượng; về những khó khăn thuận lợi; những hoạt động đã được phía Trung Quốc tính toán thực hiện trong khoảng thời gian trước khi diễn ra sự kiện Gạc Ma tháng Ba năm 1988;
Đặc biệt là chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trước thực trạng đó, cũng như những nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, hiểm nguy của dân và quân Việt Nam (mà phía Trung Quốc cho là khó có thể vượt qua vào thời điểm đó để thừa cơ ra tay) cần được nghiên cứu thấu đáo, đề cập đầy đủ.
Bởi trước khi xảy ra sự kiện Gạc Ma năm 1988, chúng ta đã đổ nhiều mồ hôi và xương máu tăng cường phòng thủ, ngăn cản bước tiến bằng vũ lực của Trung Quốc về phía Nam Biển Đông, từng bước xâm chiếm quần đảo Trường Sa, theo cách mà họ đã từng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào những thời điểm năm 1956, 1974.
Thiết nghĩ, nếu cuốn sách được bổ sung thêm những thông tin đó thì sẽ rất có ý nghĩa và giá trị. 
Chỉ khi được cung cấp đầy đủ thông tin về bối cảnh, tương quan lực lượng và hoạt động của các bên như vậy, bạn đọc mới có thể hiểu và chia sẻ những quyết định, những mệnh lệnh hết sức khó khăn: 
“Không được nổ súng trước!”
Tuyệt nhiên không có mệnh lệnh nào là “không được nổ súng” được đưa ra.
Mệnh lệnh “không được nổ súng trước” đưa ra sau khi các nhà lãnh đạo tối cao của đất nước lúc bấy giờ đã phải trăn trở, cân nhắc rất kỹ.
Bởi hoàn cảnh chủ quyền quốc gia lúc bấy giờ rất ngặt nghèo, ở cả trên biên giới đất liền và trên biển.
Trung Quốc lúc đó đang tìm cách lợi dụng thời cơ tiến hành xâm phạm hoặc gây sức ép để kiếm cớ đánh chiếm thêm các vị trí trọng yếu trong quần đảo Trường Sa và các bãi cạn nằm trên thềm lục địa phía Nam, phục vụ cho chiến lược độc chiếm Biển Đông của họ. 
Vào thời điểm đó Việt Nam đang cực kỳ khó khăn về mọi mặt, vì vừa kết thúc 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thì lại phải căng mình chống Khmer Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam và Trung Quốc xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc. 
Kinh tế kiệt quệ vì chiến tranh đã đành, nguồn viện trợ giúp đỡ cũng không còn vì Liên Xô đang bên bờ vực khủng hoảng, tất cả phải tự lực cánh sinh.
Trong hoàn cảnh ấy các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ vẫn dành tối đa mọi khả năng có thể để củng cố phòng thủ, tăng cường các điểm đóng quân chốt giữ Trường Sa và các bãi cạn nằm trong thềm lục địa phía Nam. 
Nhưng sức ta thì có hạn, mà Trung Quốc luôn luôn rắp tâm lăm le nhòm ngó, xâm chiếm…
Cụ thể là:
Đầu năm 1988, Trung Quốc điều quân chiếm đóng bất hợp pháp một số bãi cạn ở Trường Sa mà ta chưa có điều kiện đưa quân ra chốt giữ. 
Ngày 31/1/1988 Trung Quốc chiếm Chữ Thập, Châu Viên; ngày 18/2/1988, chiếm Ga Ven 26/2/1988; ngày 28/2/1988 chiếm Tư Nghĩa và ngày 23/3/1988 chiếm Xu Bi.
Trong lúc này, Việt Nam đang gấp rút triển khai lực lượng tăng cường đóng giữ đá Tiên Nữ ngày 26/1/1988, đá Lát ngày 5/2/1988, đá Lớn ngày 6/2/1988, đá Đông ngày 18/2/1988, đá Tốc Tan ngày 27/2/1988, đá Núi Le ngày 2/3/1988;
Nhờ những nỗ lực không mệt mỏi, chẳng quản ngại hy sinh này của Hải quân Nhân dân Việt Nam, bước đầu chúng ta đã ngăn chặn và hạn chế rất nhiều hậu quả từ hành vi bành trướng, chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc. 
Trước tình hình đó, Việt Nam đã dự kiến tình huống Trung Quốc sẽ tìm cách chiếm Gạc Ma, chặn đường tiếp tế của Việt Nam cho các đơn vị đóng quân ở Trường Sa. 
Vì vậy, Quân chủng Hải quân hạ quyết tâm và lên kế hoạch đóng giữ, củng cố Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao.
Khi chúng ta đưa 3 tàu vận tải chở lực lượng công binh ra phòng thủ Gạc Ma thì 3 khu trục hạm Trung Quốc trang bị đầy đủ vũ khí hạng nặng cũng tìm cách tiếp cận, ngăn cản hoạt động của ta. 
Cuối cùng chiến sự nổ ra ngày 14/3/1988, bởi sự khiêu khích, nổ súng của lính Trung Quốc. Trong cuộc chiến không cân sức, 64 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, Gạc Ma thất thủ.
Như vậy có thể thấy, nếu không có tầm nhìn, quyết tâm và hành động khẩn trương phòng thủ Trường Sa và các bãi cạn thềm lục địa phía Nam dù khó khăn đến mấy, thì chúng ta có thể đã mất nhiều hơn.
Nếu cuốn sách có thêm những thông tin này, chúng tôi tin rằng người Việt Nam và dư luận quốc tế không những cảm thông, chia sẻ mà hơn thế nữa, còn đánh giá cao bản lĩnh, trí tuệ, tài thao lược của những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp của Việt Nam lúc đó; 
Chỉ khi nào thông tin được cung cấp đầy đủ như vậy thì mới có thể lột tả hết được khí phách anh hùng, tinh thần chiến đấu kiên cường, “xả thân vì nước”; ý thức chấp hành mệnh lệnh quân sự “quân lệnh như sơn”của cán bộ chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng.  
Tất cả những nhân tố đó mới tạo lập và duy trì sự hiện diện của người Việt Nam, với tư thế là những chủ nhân, ở quần đảo Trường Sa, như nhiều người đã được tận mắt chứng kiến và, cả ở trên vùng thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, một khu vực biển, thềm lục địa luôn luôn nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc.